Khám bệnh cho trẻ em tại Phòng khám Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Thời tiết
thay đổi là điều kiện thuận lợi để vi rút, vi khuẩn,
trung gian truyền bệnh phát triển, gây bệnh và lây lan thành dịch.
Theo Bộ Y tế,
có 12 bệnh thường gặp khi thời tiết giao mùa thu - đông gồm: Sốt xuất huyết,
tay chân miệng, viêm da, sởi, viêm não, cúm, hen suyễn, nhiễm trùng hô hấp,
viêm phổi, quai bị, sốt phát ban, tiêu chảy.
Dưới đây là
một số bệnh truyền nhiễm thường gặp
khi thời tiết chuyển từ Thu sang Đông và nguyên tắc dự phòng.
Cúm
Bệnh cúm là
một bệnh truyền nhiễm do vi rút cúm gây ra. Có
bốn loại vi rút là vi rút cúm A, B, C
và D. Trong đó cúm A, cúm B thường gây bệnh cho người.
Nguồn chứa vi rút cúm bao gồm
cả người bệnh và người mang vi rút cúm nhưng
không có triệu chứng, vi rút cúm chủ yếu lây truyền qua các giọt bắn hô hấp
được tạo ra từ ho và hắt hơi. Sự lây truyền qua không khí và tiếp xúc qua các
vật thể trung gian hay bề mặt bị nhiễm vi rút cũng có thể xảy ra.
Biểu hiện
thường gặp gồm sốt, chảy nước mũi, đau họng, đau cơ, đau đầu, ho và mệt mỏi...
Các triệu chứng này bắt đầu từ 1 - 4 ngày sau
khi tiếp xúc với vi rút và kéo dài trong khoảng 2 - 8 ngày. Ở trẻ
em có thể gặp tiêu chảy và nôn. Bệnh cúm có thể tiến triển thành viêm phổi, có
thể do vi rút gây ra hoặc
do nhiễm vi khuẩn sau đó. Một số biến chứng nặng của nhiễm cúm có thể gặp như
hội chứng suy hô hấp cấp tính, viêm màng não, viêm não… tình trạng này làm trầm
trọng thêm các vấn đề sức khỏe đã có từ trước như hen và bệnh tim mạch.
Sốt xuất huyết
Sốt xuất
huyết là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút Dengue gây
ra, hiện có 4 týp huyết thanh của vi rút Dengue
thường gây bệnh ở người. Nguồn chứa vi rút là người
bệnh sốt xuất huyết và người mang vi rút không có
triệu chứng. Bệnh lây do loài muỗi Aedes
aegypti (muỗi vằn) đốt từ người mang vi rút truyền sang
cho người lành. Thời tiết thay đổi là điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển,
làm tăng nguy cơ lây truyền bệnh.
Bệnh sốt xuất
huyết có 2 triệu chứng điển hình là sốt và xuất huyết (chảy máu). Sự nguy hiểm của
bệnh là giảm lượng tiểu cầu trong máu, nếu lượng tiểu cầu thấp có thể gây chảy
máu không cầm được, nếu chảy máu ở nội tạng người bệnh có thể bị nguy hiểm đến
tính mạng. Hơn nữa, bệnh thường gây ra dịch lớn với nhiều người mắc cùng lúc
làm cho công tác điều trị hết sức khó khăn, có thể gây tử vong nhất là với trẻ
em.
Hiện bệnh sốt
xuất huyết vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc xin phòng bệnh. Việc điều
trị sốt xuất huyết hiện nay chủ yếu là nhằm điều trị triệu chứng, ngăn chặn
biến chứng. Do đó, phòng bệnh bằng cách loại trừ nơi cư trú, không cho muỗi
phát triển và phòng không để muỗi đốt vẫn là các biện pháp căn cơ. Khi bị nghi
ngờ sốt xuất huyết đến ngay cơ sở y tế để được khám và tư vấn điều trị. Không
tự ý dùng thuốc nếu không có tư vấn của chuyên môn y
tế.
Sởi
Sởi là bệnh
truyền nhiễm do vi rút sởi gây ra
và là một trong các loại bệnh dịch phổ biến ở nước ta vào giai đoạn Thu - Đông
hàng năm. Nguồn chứa tác nhân gây bệnh là người đang mắc sởi, kể cả giai đoạn
sởi chưa có triệu chứng hay giai đoạn sởi đã thoái lui. Bệnh lây theo đường hô
hấp qua các giọt bắn, giọt nhỏ dịch tiết từ đường hô hấp của người mắc bệnh
hoặc cũng có thể qua tiếp xúc trực tiếp hoặc qua bàn tay bị ô nhiễm với các
dịch tiết đường hô hấp có chứa mầm bệnh.
Bệnh sởi có
các biểu hiện đặc trưng là sốt, phát ban, ho, mắt đỏ (viêm kết mạc), chảy nước
mũi; mắc sởi có thể dẫn đến những biến chứng nặng như: viêm tai giữa, viêm
phổi, tiêu chảy, khô loét giác mạc mắt, viêm não... dễ có nguy cơ tử vong.
Với trẻ mắc
bệnh sởi, cha mẹ không nên kiêng nước, kiêng gió, kiêng ăn… Bởi khi trẻ không
được ăn đủ chất sẽ khiến bệnh kéo dài; còn kiêng gió, kiêng nước khiến trẻ
không đảm bảo vệ sinh làm tăng tỷ lệ viêm phổi và các bệnh viêm đường hô hấp
khác.
Tiêm vắc xin
sởi là biện pháp tốt nhất để phòng bệnh. Để đạt hiệu quả phòng bệnh cao, trẻ
cần được tiêm đủ 2 mũi vắc xin sởi (mũi 1 tiêm khi trẻ được 9 tháng tuổi; mũi 2
khi trẻ được 18 tháng tuổi).
Bệnh tay - chân - miệng
Bệnh tay -
chân - miệng là bệnh truyền nhiễm lây từ người sang người có thể phát triển
thành dịch do vi rút đường ruột
gây ra. Tác nhân gây bệnh là Coxsackievirus A16
và Enterovirus 71 (EV71).
Bệnh biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước tập trung
ở niêm mạc miệng, lòng bàn tay, bàn chân, mông, gối (lý do bệnh được đặt tên là
tay - chân - miệng).
Bệnh tay - chân - miệng lây chủ yếu do tiếp xúc với các dịch
tiết từ nước bọt, phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh. Do vậy, các yếu tố
sinh hoạt tập thể như trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo, nơi trẻ chơi tập trung
là các yếu tố nguy cơ lây truyền bệnh, dễ phát thành các ổ dịch.
Bệnh tay - chân - miệng có thể
gặp quanh năm. Tuy nhiên, bệnh có xu hướng tăng cao và khoảng từ tháng 3 đến
tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12 hàng năm. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng
nguy hiểm. Các trường hợp biến chứng nặng thường do EV71.
Các biến
chứng có thể bao gồm: biến chứng thần kinh như: viêm não, viêm thân não, viêm
não tủy, viêm màng não. Biểu hiện như giật mình, ngủ gà, bứt rứt, đi loạng
choạng, run chi, mắt nhìn ngược, rung giật nhãn cầu, yếu liệt chi, co giật, hôn
mê,...; biến chứng tim mạch, hô hấp gồm: viêm cơ tim, phù phổi cấp, tăng huyết
áp, suy tim, trụy mạch có thể tử vong nhanh chóng nếu không được xử lý kịp
thời.
Tiêu chảy cấp do vi rút đường ruột
Mùa Thu - Đông cũng là
thời gian rất dễ bùng phát dịch tiêu chảy cấp do vi rút đường ruột.
Vi rút Rota là tác
nhân thường được đề cập. Gần đây thêm một tác nhân nữa đã được kể đến là vi rút Noro. Các vi rút này cư trú
trong đường tiêu hoá của người bệnh và được thải ra ngoài qua dịch tiết tiêu
hoá, phân. Các vi rút có khả năng
tồn tại bền vững trong môi trường. Chúng có thể sống nhiều
giờ trên tay và nhiều ngày trên các bề mặt cứng như bàn ghế, sàn nhà, đồ chơi,
vật dụng trong gia đình...
Sau khi bị
lây nhiễm khoảng 1- 2 ngày trẻ bắt đầu xuất hiện nôn và tiêu chảy. Nôn có thể xuất hiện
trước khi bị tiêu chảy khoảng 6 - 12 giờ hoặc
có thể kéo dài từ 2 - 3 ngày.
Trẻ đi ngoài
phân lỏng như nước, có thể kèm theo nhớt nhưng không có máu. Vài ngày sau đó
tiêu chảy ngày càng tăng kéo dài khoảng 3 - 9 ngày.
Ngoài ra, trẻ có thêm những dấu hiệu như sốt vừa phải, đau bụng, ho và chảy
nước mũi. Trong giai đoạn này, trẻ rất dễ bị mất nước, cơ thể nhanh chóng bị
khô kiệt nếu không được chăm sóc thích hợp hoàn toàn có nguy cơ thành bệnh nặng
và tử vong.
Những đối
tượng dễ mắc bệnh thời kỳ giao mùa
Trẻ nhỏ: Đối với trẻ
nhỏ đa số hệ miễn dịch chưa hoàn thiện sức đề kháng yếu, rất dễ bị nhiễm bệnh
trong thời điểm giao mùa. Trẻ khi mắc bệnh dễ diễn biến nặng hơn người lớn.
Người cao
tuổi, người có bệnh mãn tính : Người cao tuổi thường có sẵn các bệnh
lý mạn tính như bệnh lý hô hấp, đái tháo đường, tăng huyết áp, tim mạch, suy
gan, suy thận làm hệ miễn dịch suy yếu. Do đó, bệnh gặp ở người cao tuổi thường
nặng hơn người trẻ rất nhiều. Thay đổi thời tiết dễ làm khởi phát bệnh lý có
sẵn ở người cao tuổi.
Nguyên tắc dự
phòng bệnh truyền nhiễm khi thời tiết chuyển mùa
- Dinh dưỡng hợp
lý, đầy đủ theo lứa tuổi. Bữa ăn đủ dưỡng chất (bữa ăn cho trẻ em cân đối 4
thành phần dưỡng chất cơ bản: chất đạm, chất béo, tinh bột và vitamin - khoáng
chất). Thực phẩm được chế biến phù hợp, vệ sinh. Khối lượng thức ăn không thiếu
và không quá dư thừa.
- Vệ sinh, giữ ấm cơ thể. Đặc biệt quan tâm đến vệ sinh mũi họng.
- Kiểm soát các bệnh nền, bệnh mạn tính. Khám bệnh định kỳ, tuân thủ các biện
pháp dự phòng, không để bệnh mạn tính bùng phát thành đợt cấp.
- Vệ sinh hô hấp, che miệng khi ho, khi hắt hơi.
- Đeo khẩu trang ở nơi có nguy cơ cao, những nơi có không gian hẹp, kín…
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, tiêm chủng các loại vắc xin phòng bệnh đầy đủ, đúng lịch, khi có dấu hiệu mắc bệnh cần đến ngay cơ sở y tế để được khám và điều trị
kịp thời.
Bảo An